Joomla 1.7 NivoSlider developed by NewJoomlaTemplates in collaboration with best web hosting reviews and ratings.
Print

Hoa của thời gian, hoa của con người - Hoàng Diệp Lạc

 

 

Hoa của thời gian, hoa của con người

 ·        Hoàng Diệp Lạc

     Thời gian và hoa. Như cặp phạm trù mỹ học sung triệt lẫn nhau. Nếu không có hoa thì thời gian trở nên vô nghĩa. Nhưng thời gian là kẻ tòng phạm khiến đời hoa qua nhanh. Vì thế tôi gọi thời gian và hoa là cặp phạm trù mỹ học sinh triệt lẫn nhau. Thật ra, mọi vật đều chịu chung một quy luật như vậy cả, chỉ có điều, hoa là biểu tượng của cái đẹp, sự thăng hoa lộng lẫy của hành trình sống, như một bài học của thiên nhiên dạy cho đối tượng chiêm ngắm mà khản giả chính là con người phải biết chịu ơn của tạo hóa. Ngày nay để đáp lại hàm ơn đó người ta kêu gọi mọi người hãy bảo vệ môi trường. Đó là trực nhận và suy diễn của tôi khi nhìn nhan đề của tập tản văn Nhưng giỏ hoa thời gian của Lê Tấn Quỳnh, do nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành 2013, bìa và trình bày Thái Ngọc Thảo Nguyên, không chỉ là sự gợi tưởng đó, mời bạn đọc bước vào thế giới “Những giỏ hoa của thời gian” để nghe sự chia sẻ từ tấm lòng của tác giả. Lê Tấn Quỳnh được biết đến như một nhà thơ, anh đã có những thành công trong quá khứ: Giải Nhất thơ Bút mới do báo Tuổi Trẻ tổ chức năm 1996, giải Khuyến khích thơ Tạp chí Sông Hương năm 1998, cùng với những tập thơ: Linh Ngọc - 1998, Vông Vang - 2009 và tập thơ Năm mặt đặt tên, in chung 2011.

     Có thể nói tản văn của Quỳnh là tập hợp của những tính từ và hình ảnh của cuộc chuyển động giữa bầu trời xúc cảm bất định. Nơi vùng trời đó, như một khung vải trắng được căng lên theo từng trạng thái cảm xúc, Quỳnh tha hồ vung vãi những sắc màu của thiên nhiên để tạo nên từng tiết nhịp cho riêng mình.

     Đối tượng đi vào trong tản văn của Lê Tấn Quỳnh là những sự vật xung quanh nhản quan của tác giả hoặc một mảnh ký ức vừa thành hình, như: Cọng cỏ  bên sông, áng mây trắng tháng giêng, những cánh hoa suốt bốn mùa,... cho đến màu xanh của ngôi làng cổ, rồi mùa hoa lau bên bến sông, những sắc vàng của hoa chuỗi ngọc, sắc tím của bằng lăng, những đường cong của mái đò, đường chéo của cơn mưa trắng đục đất trời, những nét chấm phá của mùa lễ hội làm điểm nhấn cho xứ sở Thần kinh, những nò sáo dích dắc của sóng nước Tam giang ,... đôi khi sợi dây liên tưởng khơi dậy những hình ảnh trong tầng sâu của ký ức rồi gán vào hình ảnh của hiện thực qua tâm trạng và tài diễn đạt của tác giả đã cho người đọc những câu thơ trong tản văn: “Chiếc lá cũng như những cái vẫy tay của thời gian”, hay những lúc cảm xúc dâng trào, mà chủ nhân của nó không kìm lại được, không hướng sự dâng trào theo dẫn dắt của lý tính để rồi nó bùng lên thành đám cháy, thành cơn bão: “Đám sương cuối cùng cũng qua đi và thay vào đó là những tia nắng long lanh đến bất ngờ. Nắng dường như cũng không đủ cái nồng ấm sau khi men qua lớp sương dày đặc ấy, tiếp tục đi qua những tán cây rậm để đến với chúng tôi là những đám pháo - bông - nắng lung linh đủ màu”

     Bên cạnh thành quách rêu phong, những phiên chợ trần gian là những cơn mưa ngút ngàn đã dẫn dắt tác giả vào mê cung của nổi buồn: “Cái dầm dề của cơn mưa cứ níu trải lòng ta xuống. Nỗi buồn nào có bất chợt hiện ra rồi cũng sẽ thoắt biến đi... chỉ còn lại tiếng mưa thanh thản trong hoài thai nỗi nhớ...”

     Tản văn đầy chất thơ của Quỳnh như lời tự sự của anh với từng vùng đất mà bước chân anh đã ngang qua. Kể cả trong những giấc mơ hư ảo của cuộc đời, Quỳnh bất giác thấy mình: “Chẳng còn là ta nữa trong cơn lất phất ngổn ngang gam trời lồ lộ. Có thứ men rượu nào đủ say như men mưa Huế.”  Chỉ tiếc một điều, trong cơn say ấy, người say thường lặp đi lặp lại những ngữ ngôn khiến độc giả nghĩ tác giả như lạc vào cánh rừng của từ láy mà chưa tìm được lối ra. Hay có thể đó là phong cách của tác giả để nhấn nhá làm đậm thêm nỗi buồn vốn dĩ đã chực chờ quanh ánh mắt người thơ.     Cũng như trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều từ láy được sử dụng rất tài tình và có tỉ lệ xuất hiện khá nhiều trong tác phẩm, đặc biệt là những từ láy biểu cảm về âm thanh. Thực ra, với tranh phong cảnh những danh họa rất kiệm màu trên mỗi tác phẩm. Người ta thường chia trên khung vải thành những điểm vàng, và nhắc nhở chúng ta nên thả vào những điểm vàng một cách tiết kiệm từng vệt son cảm xúc. Đọc tản văn của Lê Tấn Quỳnh, mới thấy rằng, “Những giỏ hoa thời gian“ chính là hoa của dòng sông, hình ảnh dòng sông đã xuất hiện rất nhiều trong tản văn của Lê Tấn Quỳnh. Đó là dòng Hương giang mà Quỳnh đã soi bóng, nơi đã hình thành ký ức và tính cách của tác giả. Hoa của thời gian chính là cái đẹp mà tạo hóa đã ban cho con người. Quỳnh như muốn nhắn nhủ với độc giả hãy quý mến thiên nhiên, quý mến từng giỏ hoa trong ký ức bất tận, những giỏ hoa trong cuộc sống này.

H.D.L

Những ngày sau cơn bão Nari, 10/2013

 Hình ảnh: XÔI CHUÔNG - TÌNH QUÊ TÌNH NGƯỜI* Lê Huỳnh LâmVề thể loại, thì tản văn dành cho rất nhiều người cầm bút. Nhưng để viết tản văn có chất, có tầm,... thì không mấy ai. Một thời gian khá lâu, tôi mới có cơ hội cầm trên tay tập tản văn nặng về trọng lượng và chất lượng. Ngay cái đầu đề “Xôi chuông” cũng đã khiến người đọc tò mò. Xứ Huế này, đủ các loại xôi: xôi vò, xôi đậu, xôi bắp, xôi gà, xôi thịt hon, xôi cá, xôi nếp một,... và bây giờ lại có “Xôi chuông” của nhà thơ Võ Quê. Đó là nổi niềm riêng của tác giả, nhưng với đất Thần kinh này, thì tiếng chuông quen thuộc với mọi người đến chừng nào. Chuông Thiên mụ, chuông Phủ Cam, chuông Cồn Hến, chuông Tây Linh,... tiếng chuông là âm vang tĩnh thức, là nhạc của ngôi lời cảnh giới tâm linh, là niềm hy vọng của người dân khốn khó,... nhưng với Võ Quê, ngoài những ý niệm trên, còn là trợ lực cho người yêu quý đang lâm trọng bệnh. Phải ở trong hoàn cảnh đó mới cảm được tấm lòng tác giả, phải rơi vào thời gian và không gian tĩnh mịch đó mới chiêm nghiệm được âm ba diệu vợi của tiếng chuông. Tập sách dày hơn 230 trang, với 57 bài tản văn, trình bày ấn tượng với tranh bìa của họa sỹ Bửu Chỉ, trang trí mỹ thuật do họa sỹ Nguyễn Tuấn, Nhà xuất bản Văn học ấn hành, có lời bạt của nhà văn Trần Thị Ngọc Lan, in tại công ty Thuận Phát. Tất cả câu chữ trong tập sách là lời tâm sự của tác giả với một vùng đất nặng tình, là tiếng đập của trái tim nhân ái đầy trăn trở với xã hội. Nhưng qua những câu chữ của Võ Quê, người đọc còn cảm nhận được về một xứ miền phiêu hốt, về những dấu ấn văn hóa đậm chất Cố đô,... qua tour du lịch cùng thi ca Huế lưu truyền qua các thời kỳ, đặc biệt có:Vò vọ mà chấm muối rangAi thích ăn vò vọ tìm Thuận An mà về.Hay với thời tiết Huế, tác giả như một chuyên gia về khí tượng học khi chỉ đem văn hóa tiền nhân để miêu tả thời tiết của bốn mùa trên đất Thuận Hóa. Và những hạnh phúc và trăn trở của tác giả khi Huế có con đường Trịnh Công Sơn. Trong bài về chợ Chuồn thuộc làng An Truyền mà mọi người thường gọi làng Chuồn, tác giả như trở thành người maketing miễn phí cho các đặc sản của làng mình như: cháo lòng o Rê, mắm rò mệ Nhỏ, đặc biệt bên cạnh thương hiệu rượu làng Chuồn nổi danh còn có bánh khoái cá kình là đặc sản chỉ có ở chợ Chuồn. Cũng là điều lạ đời nhưng lại có ở làng Chuồn: “Muốn ăn bánh, phải trực tiếp tới mua cá kình đem về hàng bánh khoái. Người ăn chỉ việc trả tiền bột, tiền công cho người đổ bánh”. Theo kinh nghiệm, nếu mua cá kình vào buổi chiều thì ruột cá có cát và chất bẩn. Những ngư dân cho biết, sau một đêm cá kình thải ra những dư thừa của ngày, nên buổi sáng, ruột cá rất sạch. Muốn có cá kình ngon, phải mua vào buổi sáng, vừa được cá tươi và sạch ruột.Trong bài Nấm tràm, qua câu chuyện gia đình với hình ảnh người mẹ, người vợ gọt nấm gửi con trai. Nhà thơ Võ Quê lại hướng dẫn cho người đọc cách bảo quản nấm tràm. Ngoài những hình ảnh văn hóa và con người của vùng đất văn vật, tác giả còn giới thiệu đến bạn đọc những cuộc lữ hành trên mọi miền tổ quốc, hoặc qua những thành phố xa xôi như Gyeongju tận xứ Kim Chi, hay thành phố Lowell, bang Masachusetts, thành phố New Haven kết nghĩa cùng Huế, rồi Washington, New York ở Mỹ; nơi đã diễn ra cuộc trình diễn đặc sản âm nhạc Cố đô là Ca Huế cho công chúng Mỹ. Không chỉ giới thiệu và gửi gắm tâm tình của một vùng đất, tác giả còn nhắn gửi đến thế hệ trẻ những ưu tư của người đi trước, qua bài Thư gửi con trai “... Từng trang giấy mở ra, từng phím chữ ngân lên cùng viết lời hiệu triệu khẳng định chủ quyền: Hoàng Sa - Trường Sa của Tổ quốc Việt Nam” và trong bài Lửa đương chức, Võ Quê như đại diện cho hàng triệu trái tim mọi người để gửi thông điệp đến người đương chức: “... trong giai đoạn này, mọi tầng lớp nhân dân đang cần nơi những người đương chức, đương quyền ngọn lửa của đức độ, trí tuệ, tâm huyết, tài năng, chí công vô tư nhằm vận hành đất nước ngày một tiến bộ, văn minh; làm cho nhân dân thoát khỏi đói nghèo để cuộc sống được phồn vinh, thịnh vượng.” Và anh luôn “Hy vọng và ước mơ sao ánh lửa vì nước vì dân của những người đương chức đương quyền cùng đồng hành ngọn lửa tuổi hai mươi.”Xuyên suốt trong tập Xôi chuông, hình ảnh Tiểu Kiều, người vợ quá cố của tác giả như đồng hành cùng anh trong những chuyến hành trình. Như hình ảnh lên đường của một thi nhân, hành trang mang vác theo chỉ là nỗi nhớ; mà nhớ người yêu dấu là nỗi nhớ lớn nhất của đời người. Có thể nói rằng nhớ là thuộc tính nhân bản nhất của con người mà tiền nhân đã dặn dò: Uống nước nhớ nguồn. Ăn quả nhớ người trồng cây... Tập sách không chỉ bó hẹp trong phạm vi quê nhà, tác giả còn gửi đến người đọc những cảm nhận về các xứ miền trên mặt đất quý yêu này. Tôi cảm nhận mỗi bài tản văn của Võ Quê như một vết loang cảm xúc của tác giả với ngôn ngữ nhẹ như thơ, mộc mạc như bước chân người quê và ăm ắp tình quê tình người của một văn nhân ở tuổi cận thất thập, nhưng chữ và hồn của tác giả vẫn truyền một ánh lửa nhân văn cho các thế hệ tiếp nối.L.H.LTàn cuộc rượu đêm cùng Xôi chuông 10/2013- Ảnh: Nhà văn Lê Huỳnh Lâm.

Tác giả Hoàng Diệp Lạc

 

 

 

 

 Copyright © 2008 - 2013 Võ Quê All rights reserved.