Nhà thơ NGÔ MINH
- Details
- Published Date
- Written by Võ Quê
- Hits: 9155
Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4
Tên thật: Ngô Minh Khôi
Quê quán: Làng Thượng Luật, xã Ngư Thủy, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình.
Thường trú tại: 11/ 73 Phan Bội Châu, TP. Huế.
Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam
Hội viên Hội Nhà Báo Việt Nam.
Tác Phẩm:
PHÍA NẮNG LÊN (1985)
CHẮC LÀ BIẾT ĐI (thơ thiếu nhi – in chung, 1987)
CHÂN DUNG TỰ HỌA (1989)
CHÂN SÓNG (1995)
QUÀ TẶNG XỨ MƯA (1998)
ĐƯA CON CỦA CÁT (1998)
NẮNG MẶN (thơ thiếu nhi, 2001)
PHÙ SA BIỂN (2001)
HUYỀN THOẠI CỬA TÙNG (2004)
MÚT MÙA LỆ THỦY (2005)
THƠ TẶNG (2007)
GỌI LÁ 2008)
HỒN QUÊ TRẦM TÍCH (2010)
CỔ TÍCH TÀU KHÔNG SỐ (2011)
.
.
.
LẠY CỤ NGUYỄN DU
lạy này xin cụ xá cho
cô Kiều năm ấy mới vừa qua đây
nom chừng son phấn thêm dày
cầm ca một thuở đã phai nhạt rồi
*
lạy này xin cụ đánh roi
trăm năm báo oán mà đời oán dâng
lũ Tú bà, Mã Giám Sinh
nhung nhúc Ưng Khuyển, Sở Khanh…nảy nòi
*
lạy này xin cụ ngậm cười
văn chương trần thế chín mười đơn sai
chữ tâm rơi rớt dặm dài
chữ tài liền với chữ tai… Thôi thì…
*
lạy này xin cụ say vì
cháu con thơ lại đến quỳ trước thơ
Tiên Điền mây cỏ ngẩn ngơ
trăm phần trăm
chén giang hồ
Nguyễn ơi…
Tiên Điền-Huế 1-2007
NHỚ ÔNG NGUYỄN TUÂN
ông là cây đời phiêu bạt ném vào xanh lá
mỗi ngày tiếng chữ bật chồi
tí tách niềm mới lạ
không ai trùm che nổi ông
ông chẳng trùm che ai
bóng mát văn ông chim về xây tổ
*
ông là tô phở Hà Nội mình
quý người ăn nên sang người nấu
một bữa nhớ đời
mà bắt chước thì vô cùng khó
cái dư vị trinh nguyên nết đất
cái nhân tình đậm đặc
nói với tôi: Mình hãy cứ là mình
nếu mong đến một cái gì đích thực!
*
ông rượu gạo nước mình
ngon mà đắt mà hiếm
mặn ngọt chua cay mời nhau một chén
buồn khổ sướng vui thấu lẽ đời
uống ông
say ông
càng yêu sống với đời
*
ông đếm từng manh ván cầu Hiền Lương đo nỗi đau đất nước
ông gang từng phân tội ác
chất thành tường cao
năm tháng Hoả Lò
không dạy ai
ông chỉ đếm và đo
xê dịch đến tận cùng ngày tháng
mà tiện tằn từng chữ từng câu
*
tôi không tin là ông đã ra đi
sáng nay mùa thu nhận bàn giao trời đất
ông vẫn kia
tóc cười gió ngược
mắt chớp bao lời
ông đang nới với chúng tôi
về MỘT CON NGƯỜI!
Huế 2/8/1987
TRƯỚC NGÔI NHÀ CỬA ĐÓNG
Tặng thi sĩ Lê Đình Ty
tôi đã đến và ngôi nhà cửa đóng
cây đinh lăng không biết trả lời
đồng cày ải mạ chưa cắm xuống
gió yêu đương cuốn bạn đi rồi ?
giếng nước soi bạc xám khung trời
tôi gặp tôi ở tận cùng sâu thẳm
ở tận cùng ước ao không gặp bạn
những tàu dừa đùa gió vu vơ
đêm qua còn gặp bạn trong mơ
nụ cười xanh sáng làn mây bạc
rượu uống đến say mềm. Và hát
lời ngang tàng mà chân thật cao sâu
giờ cửa đóng rồi biết tìm bạn nơi đâu
trời rộng thế bà đường đi trăm nẻo
ngã ba sông đã tàn phiên chợ Tréo
tôi lỡ làng một chuyến đò sang
thế là đành hát với thời gian
hát với ngôi nhà lặng im cửa đóng
bạn tìm tình yêu. Tôi tìm trống vắng
gió tìm nhau nên lỡ hẹn suốt đời…
-----------
Lê Đình Ty, nhà thơ, Hội VHNT Quảng Bình
MƯỜNG ĐÊM
Tặng Bùi Thị Tuyết Mai
ngàn dặm về chưa kịp lau mặt rửa chân
Mường đã kéo tay anh dọn mâm so đũa
đã rơi vào mắt nhau
chìm trong chén lửa
say rồi
anh như chú Cún theo em
Mường đêm dang vòng tay núi
dắt anh từng bậc lên trời
nơi những ngôi sao bên nhau không ngủ
em bảo gió Mường gió tươi
gió lứa đôi gió thơm mùi tóc
con gái Mường đi tay múa eo lưng
ngực căng như câu thơ chợt mọc
mắt em liếc anh rơi xuống vực
mong Mường đêm dài thêm
cao thêm…
Mường ơi anh quen hơi bén tiếng
Mường đêm xa lạ thành thân
anh thành chàng trai được chờ được hẹn
Mường đêm như chén thuốc
Mường đêm tái sinh anh …
----------
Bùi Thị Tuyết Mai, nhà thơ người Mường ở Hoà Bình
KHUYA HUẾ UỐNG VỚI BẠN THƠ CÀ MAU
Tặng Nguyễn Trọng Tín
ta khuya với bóng đền đài
tưởng như tuổi đã ra ngoài thời gian
lo mơ râu tóc sương giăng
Nam Ai…ngâm khúc tiễn nàng Huyền Trân
nước non ngàn dặm mong gần
núi cao vực thẳm phong trần sá chi
thơ còn đêm thức ngày đi
khi nơi chót Mũi khi kề Hương Giang
giai nhân ơi hỡi giai nhân
trăm năm Minh Mạng rượu dành chờ say
sông không chảy sông ắp đầy
sương sương khói khói đâu ngày sau xưa
tuổi tên danh phận như đùa
rượu vơi lựng nậm
chuông chùa cầm canh…
NHỚ THU BỒN
lực lưỡng sông quê phù sa bồi đắp
thời gian áo lính bạc màu
sống đến tận cùng
quyết không làm kẻ khác
viết như say
như khát
như cuồng
Thu Bồn
miên man trường ca cong cần rượu vít
Tây Nguyên ngựa tung bờm
Tổ Quốc như bầu vú nóng
đời ngất ngưỡng hát rong
Thu Bồn
không mào đầu vòng vo rào đón
yêu ghì chặt vòng tay
ghét quay lưng đỏ mặt
khó làm sao chân thật với lòng mình !
Thu Bồn
thơ - bàn tay đỡ người qua vách đá
thơ - gương mặt mồ hôi nhễ nhại
thơ – làn môi tím tái nụ hôn
thơ như lửa thắt lòng chén đắng
uống cạn
còn đau
ơi Hiệp sĩ Thu Bồn !
8-2003
TƯỞNG NIỆM VĂN CAO
ngang mày
chén Tiên
nhấp
thời gian gọi ông bằng ANH
bởi chưng rượu trẻ !
ông gầy như cái vỏ chai
bảy mươi hai năm đầy vơi mắt rượu
bảy mươi hai năm không đựng lẫn thứ gì
ngoài men
và lửa
ai đã từng cụng chén ông mời
ai được rót vào chai gầy từng xị
sông Huế lạnh đêm đàn
Thiên Thai Lưu Nguyễn lạc…
đời gọi ông : Tiếng Gà Báo Thức
ông : Lá rớt Hồn thu
ông : Bên trời Giọt Tháp
ông : Sum suê Như Mùa
nhưng ông chẳng nói gì
lặng nâng chén ngang mày
và nhấp
Văn Cao
chàng Quốc lủi Hồn Quê
giữa khung trời
ngồi như nốt nhạc…
Đêm 27-7-1995
Hoàng Phủ Ngọc Tường - 'người ham chơi'
“Người ham chơi” Hoàng Phủ Ngọc Tường chín năm nay chỉ nằm một chỗ, khi tiếp khách phải ngồi xe lăn. Đã sáu bảy lần vợ “tha” đi chữa bệnh khắp các thầy giỏi trong Nam ngoài Bắc, anh vẫn chưa thể đứng lên được...
Nhưng anh vẫn làm thơ, mỗi cái tết anh vẫn viết năm bảy bút ký cho các báo lớn trong nước. Nghĩa là anh vẫn đều đặn đến với người đọc. Văn chương anh là mạch vỉa than đá cung cấp nguồn năng lượng cho bao thế hệ người VN, nhưng anh lại là người hứng chịu tai ương bệnh tật nằm một chỗ chín năm nay. Có lần nằm một mình ở lầu hai, vợ và mẹ vợ bận đi chợ đâu đó, lâu không thấy ai đến chơi, anh điện thoại cho tôi, nói một câu làm tôi nổi da gà: “Ngô Minh ơi, đến đây nói chuyện tào lao chơi, mình thèm nghe tiếng người lắm!...”.
1. Hồi nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo còn ở Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường chưa bị tai biến, ba chúng tôi chiều nào cũng ngồi với nhau ở một quán cóc nào đó nhâm nhi chén rượu Hiếu để sinh hoạt “Chi hội nhà văn Bến Ngự” vì nhà ba người đều ở cạnh chợ Bến Ngự. Hồi đó, Hoàng Phủ tự gọi mình là “người ham chơi”: "Vẽ tôi một nét môi cười/ Một dòng nước mắt một đời phù du"... Anh có cả một tập nhàn đàm dày mấy trăm trang có tên Người ham chơi. Dường như lúc nào anh cũng có mặt bên chiếu rượu với bạn bè từ rừng tới biển, từ Bắc chí Nam, nói đủ chuyện Đông, Tây, kim, cổ. Trong cuộc vui, Tường bao giờ cũng nói nhiều hơn uống. Mà nói rất hay. Nói y chang như văn anh viết trong sách. Có lần tôi đến nhà gọi anh đi nhậu, mệ (mẹ nhà thơ Mỹ Dạ) bảo: “Ông ấy đi nói rồi!”.
Tường rong chơi với Hoài Vũ ở Vàm Cỏ Đông; lang thang cùng Trịnh Công Sơn khắp xó xỉnh Sài Gòn; la cà dọc Quảng Trị, Tây Nguyên với giáo sư Trần Quốc Vượng, Phùng Quán, Nguyễn Trọng Huấn, Nguyễn Trọng Tạo, Lê Minh Ngọc... Đọc bút ký, nhàn đàm, thơ của Tường, mới hay anh ngao du khắp thế giới: Từ Rừng hồi xứ Lạng, đến Đất Mũi, từ Núi bài thơ Hạ Long, Hàng rào điện tử MacNamara Dốc Miếu, đến Tháp Mười, từ Phố con mèo câu cá ở Paris, đến Trời Điện Biên mây trắng...
Cuối tháng 3/1998, Hoàng Phủ, Nguyễn Trọng Tạo cùng tôi được nhà thơ Trần Nhuận Minh, lúc đó là chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Ninh, mời về Hạ Long dự “Ngày thơ Quảng Ninh 29/3”. Trong cuộc hội thảo thơ hôm đó, gần cuối buổi, vị chủ tọa bất ngờ mời anh Tường phát biểu. Tường xoa xoa tay rồi nói vo vì không chuẩn bị trước: “Tôi ngồi nghe gần chục cái tham luận thấy các nhà thơ, nhà lý luận Quảng Ninh nói nhiều đến “các tính”, các “chức năng” của thơ, tôi thấy sợ quá, không dám bàn gì thêm. Tôi chỉ xin mạo muội nói một ý nhỏ: thơ cũng là sự chơi! Có chơi mới có thơ hay!".
Rồi Tường dẫn Tản Đà: Chơi cho biết mặt sơn hà - Cho sơn hà biết đâu là mặt chơi; vừa đánh giặc xong, Thánh Gióng bay về trời, đó là sự chơi; rồi quan họ hội Lim, rượu làng Vân, tranh làng Hồ... đều là sự chơi tài tử ở đời... Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương... đều là người chơi nổi tiếng đương thời. Còn Nguyễn Công Trứ thì... tay chơi hết nói! Hết “chơi đại thần” thì “chơi lính trơn”. Chán lính trơn lại chơi lên đại thần. Lênh đênh một chiếc thuyền nan/ Một cô gái Huế, một quan đại thần...
Trịnh Công Sơn thì rong chơi suốt mùa mà để lại cả gia tài ca khúc vô giá. Rồi Tường kết luận: “Ham chơi không phải lười biếng. Ham chơi là cách sống đạt đạo của con người đã nhìn thấy từ lâu bản chất phù hư của thế giới. Văn chương nghệ thuật cũng là cuộc chơi thượng thặng”. Không ngờ phát biểu của Hoàng Phủ lại được mọi người tán dương, tâm đắc. Giờ giải lao và suốt buổi “bữa cơm thân mật” hôm đó, nhiều nhà thơ, nhà phê bình đất mỏ đến “xin chữ ký” Hoàng Phủ. Có người còn nhiệt tình mời chúng tôi đi thăm Uông Bí, Yên Tử...
Hoàng Phủ Ngọc Tường coi mình là “người ham chơi”, vì “Ham chơi là văn hóa gốc của người Việt” (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Nhưng cứ nhìn vào số lượng tác phẩm đồ sộ và xuất sắc của anh đã xuất bản, ai cũng hiểu rằng anh chẳng “chơi” chút nào. Sau những chuyến đi như thế, anh ngồi lì trên cái ghế cổ, không có chỗ dựa lưng để viết suốt đêm, không cho phép mình được nghỉ ngơi, buông bút!
2. Tôi và Nguyễn Trọng Tạo hay gọi vui “Tường là nhà hiền triết cũ còn sót lại”. Anh có kiến thức uyên bác về nhiều lĩnh vực triết học, văn học, văn hóa, lịch sử, địa lý... Đó không phải là kiến thức “tầm chương” mà đã nhập tâm thành máu thịt. Nhờ đó, anh soi sáng dưới nhiều góc độ khác nhau những vấn đề mà mình quan tâm. Từ đó chiết ra được những ý nghĩa mới, giá trị hình tượng mới thấm đẫm tình yêu và trí tuệ, thành thứ văn chương “tri âm tri kỷ” làm nhiều thế hệ độc giả mê say. Có một độc giả già ở Hà Nội đã tỉ mẩn cắt từng câu của bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường in trên báo Văn Nghệ, nối lại thành một bài thơ, ép giấy bóng gửi vào Huế tặng tác giả. Từ những chuyện nhỏ gặp trong những đợt đi chơi lang thang, qua ngòi bút Hoàng Phủ biến thành những vấn đề nhân sinh thấm thía.
Trong bài nhàn đàm Đất nước, Tường viết về con chim cà ruồng cà tiệc, người Cơ Tu A Lưới gọi là chim patoong. Tiếng người dân tộc Cơ Tu cà ruồng cà tiệc nghĩa là đất nước. Tức là con chim đang kêu đất nước! Bởi thế mà ở Huế, chim patoong bắt đầu kêu khi vua Duy Tân bị người Pháp đưa đi đày. Người ta nghe tiếng chim kêu thành “Thôi rồi cơ cuộc... Thôi rồi cơ cuộc”, cho nên, "Hỡi con chim patoong của người lữ hành, sao ta thấy se lòng mỗi lần chim cất tiếng gọi"... Bài Con chim bách thanh lại xoáy mũi dùi vào bọn ăn nói như vẹt. Chim bách thanh hót được tiếng của muôn loài, nhưng nó không có tiếng hót riêng của mình: "Hỡi con chim tội nghiệp. Té ra trời sinh ra mi để hót bằng cái lưỡi của E-dốp!".
Không giống một số người, nói khác, viết khác, làm khác, nghĩ khác, họ luôn đeo cái mặt nạ ngăn cách tâm trạng thật của mình với xã hội, Hoàng Phủ Ngọc Tường khi nói chơi, hay nói bốc đồng trong cuộc rượu, cũng chân thật đến tận cùng, giống y chang những điều anh viết thành văn trên trang sách. Nguyễn Trọng Tạo nhiều lần bảo những điều Tường nói trong các cuộc rượu, nếu ghi âm rồi in ra sẽ là những bài viết vô cùng thâm thúy, gan ruột. Vì lúc nào anh cũng sống, cũng viết bằng trái tim đỏ thắm của mình với nhân dân, với Tổ quốc. Đến nay anh đã xuất bản 15 tập truyện ký, nhàn đàm, thơ.
Anh đã được Nhà nước tặng Huân chương Độc lập, được đề nghị tặng Giải thưởng Nhà nước đợt này. Hoàng Phủ Ngọc Tường tuổi Bính Tý, năm 2007 này anh tròn 71 tuổi, đã vào “tuổi xưa nay hiếm”. Anh đang nhờ vợ, chị Lâm Thị Mỹ Dạ, tập hợp một tập bản thảo dày có tên Cỏ thơm, gồm 55 bút ký, 20 bài thơ anh viết từ khi bị bệnh đến nay cùng với gần 100 bài viết của bạn bè về văn chương và con người Hoàng Phủ Ngọc Tường để gửi xuất bản. Ham chơi như thế thật đáng ham chơi!
3. Tường không chỉ có trái tim đỏ thắm trên từng trang viết, mà trong cuộc sống hằng ngày cũng luôn đau đáu nỗi người. Năm 1979, chiến tranh biên giới phía Bắc xảy ra, Tường bảo với tôi: “Nhất định sẽ có tổng động viên”, phải chuẩn bị “lên đường kháng chiến”! Chờ mãi không thấy tổng động viên gì cả, anh sốt ruột nói với Mỹ Dạ: “Anh phải lên biên giới thôi, đất nước nguy nan, dân mình chết như rứa, mình làm sao đứng nhìn cho được. Nhà mình còn tiền không?”. Thời đó sống bằng tem phiếu, ít gia đình có tiền dự trữ. Mỹ Dạ hiểu tính khí chồng nên chị lẳng lặng đi bán mấy tấm vải, ứng trước mấy tháng lương để anh lên biên giới. Chuyến đi ấy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết được thiên bút ký nổi tiếng Rừng hồi. Sinh thời nhà văn Nguyễn Tuân đã đề nghị chọn Rừng hồi vào Tuyển tập bút ký Việt Nam... vì có Rừng hồi thêm vào thì cuốn sách sẽ hoàn chỉnh hơn”.
Hồi bao cấp, UBND tỉnh Bình Trị Thiên (cũ) cấp cho vợ chồng Tường - Dạ một miếng đất 200 m2 để làm nhà ở khu quy hoạch Trường An với giá chỉ 200.000 đồng. Mỹ Dạ cầm tờ quyết định phân đất có dấu đỏ về hớn hở khoe với chồng. Không ngờ Tường nổi giận: “Khu đất ấy là khu mồ mả người Huế bao đời nay. Ta tranh người chết mà ở được sao? Thất đức lắm! Thất đức lắm! Em đi trả ngay cho...”. Thế là Mỹ Dạ lên tỉnh trả lại cái giấy cấp đất trước sự ngạc nhiên của bao quan chức. Nhiều văn nghệ sĩ ở Huế thời ấy không trả đất, bây giờ bán lời bạc tỉ! Mỗi lần tôi và Dạ nhắc lại chuyện “từ chối lộc trời” ấy, Hoàng Phủ lại cười bảo: “Mỗi người trong đời mình chỉ nằm một chiếc giường, một nấm huyệt, có ai nằm được một lúc hai chiếc giường, hai nấm huyệt đâu mà tranh cho lắm. Khối người còn không có chỗ trú thân. Hãy dành cho họ...!”.
4. Tường ham đi, ham chơi, lại hay thương người, nên có rất nhiều giai thoại về chuyện “ngô nghê” của “ông Tường” (chữ hay dùng của Mỹ Dạ). Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ kể: “Ông Tường là chúa ngờ nghệch. Có ai nghe các em “cave” kể khổ, có bao nhiêu tiền cho hết”. Lần ấy gần tết, Tường chưa bị bệnh, vào Sài Gòn để viết báo tết. Trịnh Công Sơn, Nguyễn Trọng Huấn... kêu đi nhậu chơi. Vào quán mới biết là chỗ có bia ôm. Suốt buổi Hoàng Phủ chỉ ngồi hỏi chuyện cô gái ngồi cạnh mình: “Em tên chi?”, “Quê ở mô?”, “Sao phải đi làm nghề ni?”...
Cô gái liền khóc ràn rụa, than: “Quê em ở Trà Vinh. Bố mẹ em vay tiền bà chủ, không đủ tiền trả nợ nên em phải đi làm với bà để trừ dần...”. “Thế mẹ em còn nợ bao nhiêu?”. “Dạ, nợ có hai chỉ vàng...”. Thế là Hoàng Phủ Ngọc Tường không một giây ngần ngại, rút ngay xấp tiền trong ngực áo nhét vào tay cô gái: “Anh chỉ có ngần này, có thể giúp em thoát khỏi chốn này!”. Đó là khoản nhuận bút mấy bài viết nhàn đàm trên báo Thanh Niên, dự kiến mang về Huế cho gia đình ăn tết! Tan cuộc, nghe Tường kể lại câu chuyện về “em gái thương tâm”, Trịnh Công Sơn ngậm ngùi: “Chao ôi, ai cũng như Tường cả thì xứ sở này sẽ thành Niết bàn!”.
Một lần ở Huế, hồi Tường mới ngao du ba tháng bên châu Âu về, có người bạn gái ở Đức mua tặng anh một chiếc áo khoác vừa len vừa da màu vàng rất đẹp để chống lại cái rét dưới độ âm ở trời Âu. Bữa đó cố nghệ sĩ điêu khắc Đỗ Toàn người Huế, sống ở Đà Nẵng ra, rủ chúng tôi đi nhậu. Cuối đông, rét tê người mà “các em gái” cứ áo voan, mini váy trông da thịt tím tái, thật đáng thương. Hoàng Phủ nhìn các em động lòng trắc ẩn: “Sao rét ri mà mấy em ăn mặc phong phanh rứa?”. Nói rồi anh cởi luôn chiếc áo khoác Đức của mình khoác lên vai cô gái trẻ ngồi cạnh. Khi ra về, cô gái trả lại chiếc áo, nhưng Hoàng Phủ gạt đi: “Anh tặng em để mặc cho ấm. Nhớ từ nay trở đi đừng có mặc mỏng manh như rứa nghe...”. Nói xong anh phong phanh áo gió đạp xe về nhà!
Vui nhất là chuyện Tường tặng đồng hồ. Một lần Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Trọng Tạo và tôi được anh em Nghệ An mời ra Vinh chơi. Đêm đó chúng tôi vui nâng ly tại một nhà hàng ở Vinh. Thấy cô em tiếp viên mặt mày khôi ngô, sáng sủa, Tường lại nổi “máu thương người”: “Sao bé không đi học, kiếm nghề chi mà làm, lại đi làm nghề ni?”. “Ôi, anh ơi, mẹ em mắc nợ, nghèo quá không trả được. Em làm ở đây hai năm rồi mà vẫn chưa trả hết nợ”. Cô gái đỏ hoe đôi mắt. “Thế mẹ em còn nợ bao nhiêu?”. “Dạ, mấy triệu...”.
Tường gọi cô gái đến bên, nhẹ nhàng rút chiếc đồng hồ anh đang đeo trên tay, đeo vào tay cô gái: “Anh tặng em chiếc đồng hồ này, bán đi mà trả nợ rồi đi kiếm việc làm khác!”. Thấy chiếc đồng hồ thuộc loại Omega rất đắt tiền, Nguyễn Trọng Tạo liền gặp bà chủ nhà hàng nói với cô gái phải trả lại ngay cho ông khách có nốt ruồi đen to dưới má cái đồng hồ, vì lúc ấy “ông ấy đùa cho vui”. Cô gái tiếp viên bị chủ “nhắc nhở” liền chạy theo níu Tường lại để trả đồng hồ. Hoàng Phủ ngạc nhiên: “Em cứ đeo, anh tặng thật mà!”.
Như hiểu ra, Tường với tay xé tờ lịch tường, viết mấy dòng cam đoan mình đã tặng đồng hồ cho cô gái rồi ký chữ ký to tướng. Khi về tới Huế, Lê Diễn, người đã tặng Tường đồng hồ, một bữa ra Huế chơi, thấy Tường không đeo chiếc đồng hồ mình tặng nữa, hỏi: “Chiếc đồng hồ Diễn tặng anh mô rồi?”. Tường thản nhiên: “Tặng cho cô gái ở quán bia ở Vinh rồi!”. Diễn vỗ đùi: “Trời ơi, anh có biết chiếc đồng hồ giá 3 triệu bạc đó cả miền Trung này chỉ có tôi và anh mới có không?”. Tường cười hồn nhiên: “Mấy triệu cũng thế, đã thương là cho...”.
N.M
*
Tư liệu: Trang thơ Ngô Minh
http://www.thivien.net/viewauthor.php?ID=634