Print

GS. HỌA SĨ VĨNH PHỐI

Published Date
Written by Võ Quê
Hits: 11181

 

 

Vĩnh Phôí by you.

 

GS. HỌA SĨ VĨNH PHỐI
"C
N CÓ CÁI TÂM CỦA NGƯỜI NGHỆ SĨ"

 

Đầu năm học 1968, tôi rời trường trung học Nguyễn Hoàng, Quảng Trị để vào học lớp đệ nhất C trường Quốc Học. Tại thành phố Huế mới mẻ này, những văn nghệ sĩ đầu tiên mà tôi may mắn được gặp rồi được quen biết là họa sĩ Vĩnh Phối cùng những người bạn đồng thời của ông : Bửu Ý, Ngô Kha, Trịnh Công Sơn ... tại quán cà-phê Tổng hội Sinh viên Huế trong mỗi buổi chiều sinh hoạt thơ ca, âm nhạc. Từ ấy đến nay, với tôi, họa sĩ Vĩnh Phối luôn là một trong những người anh lớn của phong trào văn học nghệ thuật Cố đô. Ông vẫn gần gũi, thân tình, nhân hậu giữa vòng tay văn nghệ sĩ Huế và của cả nước.

Giáo sư, Họa sĩ, Vĩnh Phối sinh ngày 3.8. 1938 tại thành phố Huế. Xuất thân từ giòng dõi hoàng tộc, ông đã tiếp thu truyền thống yêu văn chưong, nghệ thuật của gia đình nên về sau ông đã trọn một đời đồng hành cùng nghệ thuật tạo hình. Ông đã tốt nghiêp trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định; năm 1966 tốt nghiệp Mỹ Thuật ở La Mã (Ý). Được biết trong thời gian học tập ở La Mã ông đã tham gia đóng phim Marco Polo vào năm 1961 rất thành công.

(Xin mời xem bài viết của ông Nguyễn Dương Liên, hiện đang định cư ở La Mã ghi lại kỷ niệm việc đóng phim với HS Vĩnh Phối năm 1961 tại Ý : http://aejjrsite.free.fr/goodmorning/gm122/gm122_SouvenirsUnFigurantRome.pdf)

Trong ảnh: HS Vĩnh Phối là người thứ ba ở hàng bên trái.

Nội dung các tác phẩm mỹ thuật do họa sĩ Vĩnh Phối sáng tác thường được mở rộng qua nhiều đề tài khởi đi từ cuộc sống. Tên của những bức tranh được thực hiện bởi kỹ thuật tổng hợp (Tecnique miste} sau đây phản ánh khá trung thực chiều sâu tư duy, tình cảm của ông trong quá trình sáng tạo nghệ thuật : Tiên Rồng, Dòng sông xanh và cội nguồn, Phúc, Tâm hồn nhân đạo, Mặt trăng và biển cả, Mảnh gốm cổ, Công nghệ tin học, Dấu tích mặt trời ... Họa sĩ Đặng Mậu Tựu đã rất tâm đắc khi viết về tài hoa của họa sĩ Vĩnh Phối : “Ông sống hết mình vì nghệ thuật, là một trong những ngươi đầu tiên triển lãm tranh trừu tượng tại Huế trong thập niên 60 của thế kỷ trước ... Với tác phẩm ông luôn tìm cái mới, người ta thấy ở đó những bố cục màu sắc tạo nên những hình thù gần gũi trong cái mường tượng, hình như có thể, nó hiện lên trong không gian của vô cùng và thời gian vừa thật vừa không, như mới đó hoặc đã lâu rồi, xa xưa ...”(Tạp chí Sông Hương 161-07.2002)

Từ năm 1966 đến 1975 họa sĩ Vĩnh Phối là Hiệu trưởng trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế. Từ 1975 cho đến lúc nghỉ hưu ông đảm nhân chức vụ Hiệu phó trường Đại học nghệ thuật Huế, được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú. Nhiều thế hệ học trò mỹ thuật rất quý trọng, thương yêu Nhà giáo ưu tú Vĩnh Phối bởi họ đã tìm thấy ở ông sự trung thực, nhân hậu, ưu ái lắng sâu mà ông luôn dành cho họ. Họa sĩ Vĩnh Phối thường rất công tâm, tinh tế, chuẩn xác trong việc cảm nhận, đánh giá tài năng, tay nghề, tính cách của học trò mình khi viết về họ trên báo chí hoặc trong những lời giới thiệu về những cuộc triển lãm mỹ thuật. Ông đã định hướng cho nhiều lớp học trò ông bằng những lời rất thật: “Phải tự tim thấy mình và luôn có cái Tâm của người nghệ sĩ”. Những nhận định có tính học thuật, đầy hình tượng, giàu tình cảm của ông đã là nguồn động viên lớn giúp cho nhiều nam nữ họa sĩ do thế hệ ông đào tạo phát triển, định hình tư chất sáng tạo nghệ thuật trên tinh thần chân thiện mỹ.

Từ năm 1975, ngoài cương vị Hiệu phó trường Đại học Nghệ thuật Huế, GS Họa sĩ Vĩnh Phối còn tham gia nhiều hoạt động văn hóa, chính trị xã hội. Với tư cách là thành viên của UBMTTQVN tỉnh và thành phố Huế ông đã góp phần xây dựng mối đoàn kết, gắn bó giữa trí thức,nhân sĩ với các thành phần khác trong xã hội. Những năm gần đây, khi đã về nghỉ hưu, nguồn rung động, cảm hứng sáng tạo trong ông vẫn sung mãn, Cuộc triển lãm chung với người em gái: Họa sĩ Tuyết Mai chủ đề Mùa Xuân 1995 tại Nhà trưng bày Nghệ thuật Điềm Phùng Thị cùng cuộc triển lãm cá nhân tại Hà Nội là những công trình đáng trân trọng. Ông đã được nhận Huy chương Vì sự nghiệp Mỹ Thuật của Hội Mỹ Thuật Việt Nam, Huy chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam của UBTQLHCHVHNT Việt Nam.

Do có một quá trình nghiêm túc học hỏi, nghiên cứu, ứng dụng thực tiễn cùng những trải nghiệm trên lĩnh vực tạo hình mà ông được mời tham gia triển lãm ở các nước Ý, Pháp, Nhật, Hung, Ba Tây... cũng như mời ông tham gia các chương trình nghiên cứu trên nhiều nước ở Châu Âu, Châu Á do Unesco tài trợ. Những công trình của ông đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận với mối thiện cảm trang trọng. Tranh của ông cũng đã được nhiều nhà sưu tập trong và ngoài nước nhiệt thành đón nhận.

Bằng nỗ lực tự thân và niềm say mê hội họa chí cốt, nhân dịp Festival Huế 2004, họa sĩ Vĩnh Phối đã chính thức khai trương gallery tại nhà riêng : 12 Bạch Đằng Huế. Cùng với niềm vui luôn được cầm cọ vẽ tranh, thể hiện tài hoa, chiều sâu nội tâm của mình về người, về đời... họa sĩ Vĩnh Phối còn muốn gallery là một địa chỉ gặp gỡ của những tấm lòng đồng điệu nghệ thuật; Địa chỉ của những con người đang trân trọng giữ gìn bền bỉ một chữ Tâm.

 

Nghệ Thuật Kiến Trúc - Cung Đình Huế

Vĩnh Phối

Kiến trúc cung đình Huế được định hình và mang phong cách bản sắc Huế từ khi Huế là Kinh đô của Việt Nam thời triều Nguyễn. Là một trung tâm chính trị - văn hóa - kinh tế… của cả nước suốt thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, Kinh đô Huế có những công trình kiến trúc mỹ thuật kỳ vĩ nhất đất nước, nay còn tồn tại với mật độ dồi dào.


Ngọ môn và Lầu Ngũ phụng

Truyền thống dân tộc xuất phát từ dịch lý và thuật phong thủy của Trung Hoa cổ đại, nguyên lý kiến trúc truyền thống Việt Nam và kiến trúc Kinh đô Huế tất yếu phải hài hoà với thiên nhiên và con người. Ngoài thuyết Ngũ hành kết hợp thuyết Âm dương, Tam tài, quy luật phát triển của vạn vật về bố cục của đồ án quy hoạch kinh đô Huế dựa trên cơ sở nghiên cứu định hình theo thuật Phong thủy và Dịch lý của các nhà Phong thủy Phương Ðông cho những công trình kiến trúc kể cả âm phần dương cơ.

Khi xây dựng hệ thống thành quách và cung điện, các nhà kiến trúc dưới sự chỉ đạo của nhà vua đã bố trí trục chính của công trình theo vị thế toa càn hướng tốn, tức là chạy hướng Tây Bắc- Ðông Nam. Yếu tố Ngũ hành quan trọng trong bố cục mặt bằng của kiến trúc cung thành tương ứng với ngũ phương. Ngôn ngữ của kiến trúc là định vị các công trình trong không gian sao cho hài hòa với thiên nhiên. Như Điện Thái Hòa là trung tâm của Kinh thành, chung quanh là Thanh Long (Ðông), Bạch Hổ (Tây), Chu Tước (Nam), Huyền Vũ (Bắc).

Hướng Kinh thành phải quay mặt về phía Nam vì Kinh dịch viết "Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ" nghĩa là bậc đế vương xoay mặt về hướng Nam để nghe (cai trị) thiên hạ. 

Hữu Vu trong Hoàng thành

Kiến trúc cung đình Huế đã tiếp thu và kế thừa kiến trúc truyền thống Lý, Trần, Lê là tất yếu để chống sự đồng hoá và cũng chống sự lạc hậu nên đồng thời tiếp thu tinh hoa của mỹ thuật Trung Hoa nhưng đã được Việt Nam hóa một cách có ý thức dân tộc của các nghệ nhân từ các miền Nam Bắc quy tụ về xây dựng Kinh đô, kể cả những người thợ gốc Minh Hương Trung Quốc và Chămpa. Ðặc biệt đã được hiện đại hóa kỹ thuật của những công trình sư người Pháp phục vụ dưới thời Gia Long, theo phương châm cơ bản tiếp thu có chọn lọc những kiến trúc thích nghi với tâm hồn người Việt và Việt hóa dần để phù hợp với tâm lý bản địa đem lại những đặc trưng bản sắc kiến trúc Huế.

*Kiến trúc cung đình Huế*

Về kiến trúc quy hoạch đồ án xây dựng kinh đô Huế, vua Gia Long là một nhà chính trị, quân sự, đồng thời là một người có sáng tạo trong quy hoạch đô thị. Ðồ án được thai nghén trong tâm thức nhà vua từ trước khi đăng quang. Việc thi công được thực hiện kể từ năm 1802. Kinh đô Huế xây dựng bởi ba lớp thành bao bọc là Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành.

*Kinh thành hay Phòng thành*

Năm 1802 vua Gia Long khởi công xây dựng Hoàng thành và Tử Cấm thành. Năm 1805 mới bắt đầu xây dựng Kinh thành, quy mô diện tích rất lớn 520ha, chu vi 10km. Ðặc biệt vận dụng kiểu kiến trúc phòng ngự Vauban của Pháp.

Phòng thành Huế tạo những đường dích dắc, gồm các hệ thống: luỹ, pháo đài, giác bảo, đoạn thành nối hai pháo đài, tường bắn, phản pháo, phòng lô, hào, thành giai... Đây là một loại thành luỹ đã được áp dụng ở nhiều địa phương nước Pháp và các nước lân cận.

Khi xây dựng kinh thành, 8 làng phải dời đi và hai đoạn nhánh Sông Hương là Bạch Yến và Kim Long đã bị lấp.

Vòng thành có 10 cửa lớn đường bộ, hai đường thuỷ và kỳ đài; thành cao 6,6m, rộng 21m xây gạch bên ngoài kiên cố có dãy hào sâu gọi là Hộ Thành hà.

Trong Kinh thành còn có những công trình kiến trúc: lục bộ, nha viện, Quốc Tử giám, Quốc Sử quán, quần thể kiến trúc hồ Tịnh Tâm, Khâm Thiên giám, Trần Bình đài, Tàng Thơ lâu, Kỳ đài... Thật sự kiểu thức này cũng đã được áp dụng khi xây dựng thành Gia Ðịnh (1791) do ông Olivier de Puymanuel giỏi về kiến trúc và kỹ sư Leburn đã thiết kế giúp chúa Nguyễn Ánh. Kinh thành Huế xây thời Gia Long và vua kế vị Minh Mạng đã xây tiếp các thành: Hà Nội, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Sơn Tây, Hưng Yên, Hưng Hoá, Nam Ðịnh, Thanh Hoá, Vinh, Ðồng Hới, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, Phú Yên, Khánh Hoà, Yên Hòa, Vĩnh Long... cũng đều theo phong cách Vauban, một phong cách xuất hiện sớm ở châu Á.

Toàn cảnh Kinh Thành Huế

Thành gần hình vuông, mỗi cạnh 606m. Trong đồ án hơi lệch về phía Nam của Kinh thành, có một cửa chính Ngọ Môn (Nam), Hòa Bình (Bắc), Hiển Nhơn (Ðông) và Chương Ðức (Tây). Theo trục dũng đạo, từ cửa Ngọ Môn vào điện Thái Hoà là nơi thiết đại triều và tiếp sứ thần, có nhiều cầu, hồ liên tục và những phương môn bằng đồng nguy nga tráng lệ. Khu vực thờ cúng tổ tiên có: Triệu miếu, Thái miếu, Hưng miếu, Thế miếu, điện Phụng Tiên, Cửu đỉnh, các cung Diên Thọ (các bà mẹ vua ở), cung Trường Sanh (các bà nội vua ở), các kho tàng, vườn Thượng Uyển … Ngọ Môn và Hiển Lâm các là hai công trình kiến trúc đồ sộ, độc đáo tuyệt mỹ của kiến trúc truyền thống Huế.

*Tử Cấm thành*

Thái Bình Lâu trong Tử Cấm thành

Toàn bộ cung điện, lầu gác, đình tạ xây dựng để phục vụ sinh hoạt của nhà vua và gia tộc. Ðại cung môn gồm có: điện Cần Chánh, Càn Thành, Kiến Trung, Tam Cung lục viện, Tả vu, Hữu vu, điện Văn Minh, Võ Hiển, Thái Bình lâu, Duyệt Thị đường, Thái Y viện, v.v...

Ngoài Kinh thành còn có: Phu Văn lâu, đàn Nam Giao, Văn Thánh, chùa Linh Mụ, điện Hòn Chén, Hổ Quyền... Đây là những di tích lịch sử và cảnh quan đẹp của đất Thần kinh.


*Giá trị thẩm mỹ của những công trình kiến trúc tiêu biểu*

*Ngọ Môn*

Là cổng chính của Ðại nội, xây dựng 1833, thời vua Minh Mạng. Ngọ Môn được xây dựng trên mặt bằng hình chữ U và hệ thống Ngũ Phụng lâu chia thành 9 bộ mái lớn nhỏ, cao thấp, nhấp nhô trông rất đẹp mắt để tránh sự nặng nề của công trình kiến trúc hình khối tương đối đồ sộ. Hệ thống nền đài xây dựng bằng vật liệu cứng (đá thanh, gạch, đồng) nhưng nhờ tạo dáng mềm mại, bố trí hài hoà, trau chuốt khéo léo nên trông rất nhẹ nhàng. (hình: Toàn cảnh Ngọ Môn)


Các lối đi trổ xuyên thâu nền đài thành như đường hầm dài. Tổng thể Ngọ Môn đồ sộ nguy nga, hùng tráng, nhìn xa như một lâu đài tráng lệ phản ánh trình độ cao của các công trình sư, kiến trúc sư thời Minh Mạng. Ngọ Môn là một công trình kiến trúc tiêu biểu, xuất sắc của triều Nguyễn nói riêng và kiến trúc cổ Việt Nam nói chung.

*Ðiện Thái Hòa*

Trong Ðại nội, cung điện quan trọng nhất là điện Thái Hoà. Ðiện nằm ở điểm trung tâm trong quy hoạch tổng thể mặt bằng hệ thống các công trình kiến trúc cung đình kinh đô Huế. Nơi đây đặt ngai vàng, biểu tượng thiêng liêng của chế độ quân chủ. Về phong cách kiểu thức, kiến trúc ở Kinh đô Huế khác hẳn những triều đại trước thuộc văn hoá Thăng Long. Ðiện Thái Hoà cũng như nhiều điện khác trong Đại nội được thiết kế theo kiểu thức nhà kép, gọi là trùng thiềm điệp ốc (mái chồng lên nhau, nhà nối liền nhà), nhà trước và nhà sau của điện nằm trên một mặt nền và nối liền nhau bằng một hệ thống vì kèo thứ ba, một hệ thống trần nằm cong nên thường gọi là trần vỏ cua hay thừa lưu. Ðiện Thái Hoà là một ngôi điện lớn, uy nghi tráng lệ nhất trong quần thể kiến trúc cung đình xưa còn tồn tại ở Huế, nó mang chủ đề tư tưởng của kiến trúc Kinh đô Huế và chế độ quân chủ nhà Nguyễn. Ðây là một công trình kiến trúc có thể xem là chuẩn mực về cấu trúc phong cách như những cung điện miếu thờ của kiến trúc cung điện triều Nguyễn theo kiểu trùng thiềm điệp ốc.

*Ðiện Long An* (nay là Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế)


musée d'Art royal de Hué, citadelle (Hué)
bảo tàng Mỹ thuật Cung đình (bảo tàng Cổ Vật), Kinh Thành (Huế)
Trên phương diện kiến trúc cổ, đây là một công trình có giá trị thẩm mỹ cao của nhà Nguyễn, kiến trúc điện Long An là một tòa nhà kép, gọi là trùng thiềm điệp ốc, hệ thống vì kèo trần vỏ cua được chạm trổ rất tinh tế. Không gian rộng, có chiều sâu, tạo sự thâm nghiêm chung quanh toà nhà; tòa nhà tuyệt đối không xây vách mà chỉ dựng toàn cửa bằng khoa lồng kính để tiếp nhận ánh sáng, mái bao che chung quanh 3 tầng, ở giữa là hàng cổ diềm được trang trí hàng cột hiên đứng xuống mặt sàn nhà không từ trên nền. Ðiện Long An được trang trí hình ảnh và thơ văn nhiều nhất. Nội thất có bảy mươi mốt ô hộc trang trí theo lối nhất thi nhất hoạ với chất liệu óng ả cẩn xà cừ, ngà xương. Ðặc biệt trên hệ thống bản đố nhà trong, hai bên có hai vách gỗ, có 56 chữ Nho được sắp xếp hình Bát Quái và dùng để hồi văn liên hoàn có thể đọc thành 64 bài thơ thất ngôn và ngũ ngôn khác nhau do vua Thiệu Trị sáng tác. Ðiện Long An là một công trình nguy nga, tráng lệ và thanh nhã bởi những bàn tay khéo léo của các nghệ nhân được xem là một cung điện đẹp nhất ở Huế và Việt Nam. Ðiện thuần túy bằng chất gỗ, không vàng son như thường thấy ở các cung điện khác.


*Hiển Lâm Các*

Là một công trình kiến trúc độc đáo cao ba tầng bằng gỗ duy nhất, trông rất kỳ vĩ trang nghiêm, có 12 mái, 4 cột chính chạy suốt chiều cao khoảng 13m , diện tích mặt bằng rộng 300m². Trên nền các tầng thu nhỏ dần, tạo thành cấu trúc khối đơn giản, đẹp và duyên dáng nhưng có vẻ tôn nghiêm. Chức năng chính được xem như đài tưởng niệm để ghi nhớ công lao của các vua nhà Nguyễn được thờ ở Thế miếu. Hệ thống kết cấu con sơn là một kiểu thức của kiến trúc cổ Việt Nam nhưng đã có sự phát triển mới. Trang trí nội thất cũng như ngoại thất rất tinh tế, đẹp hài hòa với không gian thiên nhiên tươi đẹp, những cây cổ thụ rợp bóng mát quanh năm. Hiển Lâm các có giá trị về kỹ thuật lẫn thẩm mỹ tạo hình.

*Lăng tẩm các vua nhà Nguyễn*


Dưới thời Nguyễn, lăng tẩm của các vị hoàng đế có kiến trúc rất quy mô, hài hòa giữa thiên nhiên với con người. Chúng như những khu công viên rộng lớn ở thượng nguồn sông Hương và một phần nào phản ánh tư tưởng, cá tính của các vị vua. Bản thân các vua đã bỏ hết tâm tư vào việc xây dựng lăng tẩm cho mình từ lúc còn tại vị. Thành phần kiến trúc gồm có: tượng chầu bái đình, nhà bia, trụ biểu, tẩm điện. Thành phần tự do gồm có: hồ cầu, la thành, nghi môn.... Sự thêm bớt quy hoạch cụ thể, tuân thủ nghiêm túc những nguyên lý phong thủy của các thầy địa được trọng dụng đưa ra để chọn địa thế như: Vạn niên cát địa (đất tốt ngàn năm), Tiền án hậu chẩm (núi án phía trước, núi gối phía sau), Tả long hữu hổ (núi chầu phải, trái như rồng chầu hổ phục), Huyền thủy chi lưu (nước chảy lặng lẽ vòng quanh hình chữ chi), Sơn triều thủy tụ (núi hướng về, nước chảy đến). Những lăng tiêu biểu như lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Ðức... có vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ và mang phong cách truyền thống. Tuy nhiên cũng có lăng ảnh hưởng kiến trúc Baroque Tây phương như Lăng Khải Ðịnh.

Là những kỳ quan được thiết kế xây dựng rất kỳ công trong những không gian hoành tráng hùng vĩ, hài hòa với cảnh quan thiên nhiên một cách tuyệt vời, bố cục tạo hình gợi cảm tiết điệu, có giá trị thẩm mỹ cao. Tuỳ thuộc tư tưởng cá tính của mỗi vị vua, các lăng phản ánh tâm linh quan niệm vĩnh cữu và huyền bí phương Ðông. Theo quan niệm phương Ðông khi lên ngôi, các vị vua đều nghĩ đến việc xây dựng lăng tẩm, nơi an nghỉ cuối cùng "tức vị trị quan" đấy là nguyên tắc của các vị đế vương.

*Lăng Gia Long*

Ðồ án công trình bố cục theo chiều ngang trải rộng mênh mông, không có đình tạ và thành. Tổng thể điện Minh Thành bao gồm tẩm điện, sân chầu, tượng đá voi ngựa, quan chầu, bia Thánh Đức thần công. Bao quanh cảnh núi đồi hùng vĩ giống như một vòng thành thiên nhiên, với núi Thiên Thọ gồm 42 ngọn đồi. Khu mộ hợp táng vua và hoàng hậu là sự độc đáo của công trình lăng ở phương Ðông. Cảnh quan thiên nhiên hoà quyện với kiến trúc. Con người làm chủ được thiên nhiên trong sự hài hòa có tính chất chiều sâu tâm linh nội tại. Một chuyên gia UNESCO đã nhận xét rằng, lăng Gia Long ở giữa một khu vườn thiên nhiên bao la gợi nên ấn tượng hoành tráng và thanh thoát.

*Lăng Minh Mạng*

Lăng Minh Mạng, với đồ án chữ Minh của mặt bằng hồ cùng những công trình kiến trúc theo trật tự thẳng trục thần đạo, có tính chất uy nghiêm hùng vĩ, đã phản ảnh tư tưởng trung ương tập quyền của vị hoàng đế này. Lăng Minh Mạng được coi là một trong những công trình lăng tẩm đạt đỉnh cao của sự hài hoà đối xứng và bất đối xứng của trật tự nghiêm ngặt tạo sự hoành tráng uy nghi, đặc biệt tẩm (khu mộ khối hình tròn thành cao tượng trưng cho mặt trời, biểu tượng thiên thể).

*Lăng Thiệu Trị*

Là sự thay đổi không gian qua biến thể cấu trúc kết hợp giữa đồ án hoành của lăng Gia Long và trục đứng đạo đến khu mộ của lăng Minh Mạng để tạo ra bố cục mới đặt cụm kiến trúc sân chầu, nhà bia, bửu thành song song viện chính và vẫn giữ vẻ uy nghi, quy mô hoà hợp với cảnh quan thiên nhiên.

*Lăng Tự Ðức*

Tuy có sự kế thừa nhưng đã phá vỡ không gian tạo hình, không giống những lăng các vị tiên đế. Ðồ án uyển chuyển nhịp nhàng, tạo nhịp điệu đầy chất thơ hoà quyện trong không gian thiên nhiên đầy thông, hồ nước chảy quanh, đặc biệt điểm tô thêm nhà thuỷ tạ duyên dáng soi bóng trên mặt hồ sen, một nhà bia với tấm văn bia đồ sộ biểu lộ tâm trạng bi quan của nhà vua. Lăng phản ánh tâm hồn phóng khoáng, lãng mạn của một vị vua thi sĩ đã có nhiều trước tác về thơ văn có giá trị văn học.

Vĩnh Phối